Nước Việt Nam Cộng Hòa ra đời như thế nào?

Việt Nam Cộng Hòa quốc kỳ

Bối cảnh ra đời Việt Nam Cộng Hòa

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ vào năm 1954 và ký Hiệp định Genève, Việt Nam và Pháp đã tập kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17, Pháp và Mỹ chủ trương thành lập Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam.

Việt Nam Cộng Hòa
Tướng Edward Lansdale, Chỉ huy cố vấn của Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa

Tướng Edward Lansdale, Chỉ huy cố vấn của Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa

Theo dự kiến, sau hai năm, quân Pháp sẽ rút dần và Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower cho thấy rằng nếu cuộc tổng tuyển cử diễn ra, khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh.

Không thể chấp nhận sự thành công của Hồ Chí Minh trong cuộc bầu cử và thành lập chính phủ trên toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam, Hoa Kỳ đã hỗ trợ cuộc bầu cử không thành công nhằm chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia. Bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không, Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng ở miền Nam Việt Nam.

Năm 1954, tướng Edward Lansdale, một sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953 đến 1956, đã chỉ huy một đội bán quân sự của Mỹ. Lansdale bí mật đưa vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam, xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ Ngày 13 tháng 12 năm 1954, hai quốc gia Mỹ và Pháp ký kết một thỏa thuận cho phép các cố vấn quân sự Mỹ dần thay thế các sĩ quan Pháp trong việc huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1 năm 1955, Hoa Kỳ chính thức cung cấp quân sự trực tiếp cho Việt Nam. John F. Kennedy, Thượng nghị sĩ (4 năm sau khi trở thành Tổng thống) Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Kennedy nói:

“Chúng ta chắc chắn là cha mẹ đỡ đầu của nước Việt Nam nhỏ bé [chỉ Việt Nam Cộng hòa] nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nó. Khi nó ra đời, chúng ta là chủ tọa của nó, chúng ta hỗ trợ nó sống và giúp định hình tương lai của nó. Chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể bỏ qua những nhu cầu của nó.

Mỹ đã tài trợ 414 triệu USD cho việc trang bị cho các lực lượng thường trực của Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm 170.000 quân và 75.000 cảnh sát, từ năm 1954 đến 1956. Đây là 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Tất cả 800 chuyến tàu quân sự của Mỹ đến miền Nam Việt Nam từ năm 1955 đến 1960. Khi không có sự hỗ trợ của Pháp, Việt Nam có thể duy trì bộ máy hành chính và quân đội của mình bằng số tiền này. Vũ khí và chiến thuật của Mỹ dần được sử dụng bởi quân đội Quốc gia Việt Nam thay vì của Pháp.

Việt Nam Cộng Hòa
Ngô Đình Diệm lên nắm quyền trong vận động trưng cầu dân ý năm 1955, Việt Nam Cộng Hòa

Ngô Đình Diệm lên nắm quyền trong vận động trưng cầu dân ý năm 1955.

Đến lúc này, Thủ tướng Ngô Đình Diệm và Quốc trưởng Bảo Đại—nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn—lại xảy ra mâu thuẫn. Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa sau cuộc trưng cầu dân ý gian lận được gọi là “trò hề trưng cầu dân ý”. Sau đó, Việt Nam tổ chức các cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến.

Trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, với thủ đô là Sài Gòn, quốc hội này ban hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26 tháng 10 được coi là ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa. Để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở miền Nam, Việt Nam Cộng hòa là một chính phủ đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ.

Ông phát triển chủ nghĩa “Cần lao Nhân vị” dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, duy trì sự đối lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa đã đạt được một số thành tựu trong khoảng năm năm: xã hội ổn định, kinh tế phát triển, gần một triệu người di cư từ miền Bắc đến định cư, thành lập Viện Đại học Huế.

Tuy nhiên, giới đối lập coi chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm là một chính phủ độc tài gia đình trị, dẫn đến nhiều xung đột nội bộ. Từ năm 1955 và đặc biệt là từ năm 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp những người cộng sản và tố cộng diệt cộng trên toàn bộ Nam Việt Nam với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, do lo ngại về tác động của phong trào Việt Minh. Điều này được thực hiện dựa trên Luật 10-59 Những cuộc đảo chính hụt năm 1960 và Phong trào Đồng khởi năm 1960, do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, là những đòn giáng mạnh vào chế độ Ngô Đình Diệm.

Mâu thuẫn tôn giáo cũng gia tăng. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến việc chính quyền đàn áp tín đồ Phật giáo. Các phương tiện truyền thông phương Tây đả kích nghiêm trọng chế độ Ngô Đình Diệm, bao gồm những phát biểu của bà Ngô Đình Nhu, còn được gọi là Dân biểu Trần Lệ Xuân, cũng như việc Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn, khiến chế độ này mất hết sự ủng

Quân đảo chính đã bắn chết Ngô Đình Diệm trong chiếc xe thiết giáp M113.

Một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy của một số tướng lĩnh, trong đó có tướng Dương Văn Minh, lật đổ Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, được coi là ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Anh em Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm đều bị giết. Tổng thống Kennedy nói trong băng ghi âm tại Nhà Trắng rằng ông bàng hoàng về cái chết của hai anh em Diệm và Nhu, nói rằng cái chết của họ thật kinh khủng.

Theo hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, CIA đã hỗ trợ việc lật đổ, điều mà McNamara sau này coi là một sai lầm nghiêm trọng của Hoa Kỳ. Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp khi biết anh em Ngô Đình Diệm đã bị giết. C’est incroyable! (Thật tuyệt. Thật tuyệt vời).

Kể từ đó, Việt Nam Cộng Hòa đã ngày càng phụ thuộc vào Hoa Kỳ về tài chính và quân sự. Tòa đại sứ Mỹ ngày càng can thiệp vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng Hòa.

Quân đội Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1963 đến năm 1967

Tại hội nghị Hiệp ước SEATO nhóm họp tại Manila năm 1966, hai tướng Nguyễn Cao Kỳ (đầu tiên bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu (thứ sáu từ trái sang) là đại diện của Việt Nam Cộng hòa.

Tại hội nghị Hiệp ước SEATO nhóm họp tại Manila năm 1966, hai tướng Nguyễn Cao Kỳ (đầu tiên bên trái) và Nguyễn Văn Thiệu (thứ sáu từ trái sang) là đại diện của Việt Nam Cộng hòa.

Sau đó, miền Nam trải qua một giai đoạn khủng hoảng lãnh đạo chính trị gây ra bởi nhiều cuộc đảo chính cho đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu thành lập Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa.

Hơn mười cuộc khủng hoảng chính trị đã xảy ra ở miền Nam trong vòng 18 tháng sau cuộc đảo chính 1963. Chúng bao gồm thành lập Tam đầu chế, phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu, cuộc đảo chính năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh, chính phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ, chính Những chính phủ dân sự được thành lập sau đó lần lượt bị hạ bệ bởi các phe quân đội và sau đó lại phải rút lui. Các nhóm Công giáo và Phật giáo cũng nhiều lần tham gia các cuộc biểu tình gây áp lực trong xã hội. Bản Hiến pháp năm 1956 vô hiệu hóa về mặt pháp lý. Thay vào đó, các hiến chương tạm thời như:

Hiến chương số 4 năm 1963.

Hiến chương số 7 vào ngày 2 tháng 2 năm 1964.

Hiến chương 16 tháng 8 năm 1964, còn được gọi là Hiến chương Vũng Tàu.

Hiến chương được ban hành vào ngày 20 tháng 10 năm 1964.

Về mặt quân sự, trong Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh tiếp tục chiến đấu chống lại các hoạt động quân sự của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chiến tranh ngày càng lớn và ác liệt. McNamara mô tả trong phúc trình gửi Tổng thống Johnson vào ngày 16 tháng 3 năm 1964 những hậu quả khủng khiếp của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm:

“Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong 44 tỉnh), Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn.” Tại Phước Tuy, sự kiểm soát của Việt Cộng là 80%, Bình Dương là 90%, Hậu Nghĩa là 90%, Long An là 90%, Định Tường là 90%, Kiến Hoà là 90% và An Xuyên (Cà Mau) là 85%. Quận Mõ Cày cũng như các xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp được xếp hạng là “đỏ 100%”, với hơn 900 xã như trong trường hợp của ba xã này.

Lượng hàng vận chuyển vào miền Nam tăng vọt sau khi đảo chính xảy ra vào năm 1963, khiến đường mòn Hồ Chí Minh nhanh chóng trở thành một “xa lộ thênh thang”. Đoàn vận tải ô tô trước đây đổ hàng vào Khe Hó rồi dùng voi hoặc sức người đến Palin Thừa Thiên. Đầu năm 1964, các đoàn ô tô đã có thể đến điểm trạm ngã ba biên giới Kontum. Số lượng vận tải tăng 40 lần so với năm trước, với tỉ trọng vận tải cơ giới là 51%. Trước những thất bại này, Tổng thống Mỹ quyết định gửi quân viễn chinh trực tiếp đến miền Nam Việt Nam để chiến đấu.

Theo báo Quân đội Nhân dân, “Tình hình cách mạng miền Nam đã có những tiến bộ vượt bậc vào đầu năm 1965.” Cuộc “chiến tranh đặc biệt” giữa Mỹ và Ngụy ngày càng trở nên khủng hoảng và thất bại. Đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách để tạo ra một “sức mạnh” để ngăn cản chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời mở rộng hoạt động ném bom đánh phá ở miền Bắc.

Mỹ nhảy vào Việt Nam Cộng Hòa

Ngày 8 tháng 3 năm 1965, quân đội Hoa Kỳ chính thức đến Đà Nẵng. Bản tin của Bộ Quốc phòng Mỹ hai ngày trước tuyên bố rằng Mỹ đã đổ quân vào miền Nam Việt Nam theo yêu cầu của chính phủ Sài Gòn, nhưng phía Mỹ không thông báo cho Việt Nam Cộng hòa về thời gian và địa điểm đổ quân. Một sĩ quan Mỹ đến gặp Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa là Phan Huy Quát và yêu cầu ông soạn thảo một thông cáo chung bằng tiếng Anh và tiếng Việt để phổ biến rộng rãi vào sáng ngày 8 tháng 3.

Khi đó, ông Quát mới biết quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam. Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa phải hợp thức hóa việc quân Mỹ đã đổ bộ bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm và một viên chức Mỹ là Melvin Manfull viết ngay một thông cáo chào mừng, với chỉ đạo: “Viết càng ngắn càng tốt.” Chỉ mô tả sự kiện rồi nói rằng chúng tôi đồng ý. Trong những tháng sau đó, hàng chục vạn lính Mỹ và lực lượng hiện diện của họ đổ bộ vào miền Nam.

Để giải quyết sự bất ổn chính trị, vào tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành thông báo rằng cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến sẽ được tổ chức vào ngày 3 tháng 9. Theo đó, 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần đã ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam vào ngày 1 tháng 4 năm 1967. Cho đến 30 tháng 4 năm 1975, hiến pháp này đóng vai trò là cơ sở pháp lý của nước Việt Nam Cộng hòa.

Vào ngày 3 tháng 9 năm 1967, cuộc Tổng tuyển cử Tổng thống và Quốc hội diễn ra với 11 ứng cử viên, bao gồm cả những chính trị gia kỳ cựu như Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương. Năm triệu người, tức 80% trong số hơn sáu triệu cử tri, đã đi bầu. Liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ đã giành chiến thắng với 35% số phiếu bầu. Luật sư Trương Đình Dzu đứng thứ hai với 17%.

Tháng 6 năm 1969, Đại hội đại biểu quốc dân diễn ra ở vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội đã chọn Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Hội đồng Cố vấn.

Tổng tuyển cử Đệ Nhị Cộng hòa thứ hai diễn ra vào năm 1971. Vì không có đối thủ nào khác ra tranh cử nên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng. Khi sự việc này xảy ra, nhiều người cho rằng điều luật mới được thông qua vào ngày 3 tháng 6 năm 1971 hạn chế khả năng ứng cử viên đối lập tham gia. Theo đó, ứng cử viên phải có 100 chữ ký của các thành viên hội đồng tỉnh và 40 chữ ký của các nghị sĩ hay dân biểu Quốc hội ủng hộ. Vì không thỏa mãn các yêu cầu trên, Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ đã phải rút tên, khiến cuộc bầu cử chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu.

Sau khi Hiệp định Paris được thảo luận giữa bốn bên tham chiến: Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa, quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam vào năm 1973. Việt Nam Cộng hòa đã cố gắng trì hoãn việc ký kết, nhưng Hoa Kỳ đã đưa ra quyết định dứt khoát và áp lực chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam Cộng hòa phải ký hiệp định.

Việt Nam Cộng hòa không thể tự chủ vì không có viện trợ tài lực và quân sự từ Hoa Kỳ. Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu, Việt Nam Cộng hòa giống như “một lâu đài xây trên cát, trông bề thế bên ngoài nhưng chỉ cần một con sóng nhỏ là tan vỡ”, và những lý do sau đây là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ:

Binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đang cố gắng di tản bằng cách bám vào càng nhiều chiếc trực thăng UH-1.

Không có lãnh đạo đủ khả năng: Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền năm 1967, chỉ là một bù nhìn, giống như việc bắt đầu binh nghiệp làm thông ngôn Pháp của ông ta. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tự đưa ra các quyết định. Các chính sách từ lớn đến nhỏ đều do Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, các tướng lĩnh MACV (Trung tâm Chỉ huy Tác chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam), sau đó là USAID (Cơ quan Quản lý Viện trợ Hoa Kỳ) soạn thảo và đôn đốc thực hiện. Dù Việt Nam Cộng hòa không ngừng tự xưng là “Đồng minh” của Mỹ, nhưng Đại sứ Ellsworth Bunker và Graham Martin có quyền lực giống như những “Toàn quyền Đông Dương” của Pháp trước đây.

Không có sự ủng hộ của người dân: Cơ quan tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa liên tục kêu gọi tinh thần chống Cộng với dân chúng miền Nam, nhưng họ chỉ có thể kiểm soát được khoảng 20-30% dân số. Phần còn lại sống trong những khu vực được quân Giải phóng miền Nam một phần hoặc toàn bộ kiểm soát. Trong số 20-30% dân chúng sống trong khu vực do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, có rất nhiều người không ủng hộ chế độ này và chia làm nhiều phe phái chống lại nhau vì những lý do khác nhau, chẳng hạn như tôn giáo (Thiên Chúa giáo hoặc Phật giáo), sắc tộc (người Việt hoặc người Hoa), vùng

Nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ; khi Hoa Kỳ giảm viện trợ, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng ngay lập tức. Cuộc khủng hoảng kinh tế từ năm 1973 đến năm 1974 khiến đời sống của người dân trở nên khó khăn. Ngoài ra, lương bổng cho binh sĩ bị giảm, làm suy yếu ý chí chiến đấu của nhiều binh sĩ.

Không có chỉ huy có kinh nghiệm trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa vì hệ thống phe đảng và tham nhũng đã khiến những chỉ huy tiềm năng nhất bị loại ngũ hoặc chết trận. Khi tác chiến, họ quen thuộc với sức mạnh của hỏa lực của Quân đội Hoa Kỳ, vì vậy khi không có hỏa lực của Hoa Kỳ nữa, họ bị lúng túng. Bản thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã lên chức vì đảo chính, không phải vì thành tích trong cuộc chiến. Ông Thiệu sử dụng tất cả quyền lực của mình sau khi trở thành tổng thống, biến Bộ Tổng Tham mưu thành một bộ phận thư ký thay vì tự quyết sách—vì ông sợ rằng đến lượt chính mình sẽ bị người khác đảo chính lật đổ.

Hiệp định Paris năm 1973 khiến binh sĩ hoang mang rằng “Mỹ đã bỏ rơi chăng?” Cảm giác chiến đấu ngày càng suy giảm vì câu hỏi “Nếu Mỹ không đánh lại thì sao mà tự đánh được?” Một đơn vị bị một viên pháo nã vu vơ vào đồn, trong khi một đơn vị khác tự ý bỏ chạy sau khi nghe tiếng máy cày trong đêm và hoảng sợ báo cáo sự xuất hiện của xe tăng địch.

Năm 1975, một người đàn ông Mỹ đấm vào mặt một người khác để lên trực thăng di tản khỏi Nha Trang.

Năm 1975, một người đàn ông Mỹ đấm vào mặt một người khác để lên trực thăng di tản khỏi Nha Trang.

Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã thẳng thắn tuyên bố rằng ông sẵn sàng bỏ mặc “đứa con” Việt Nam Cộng hòa để Hoa Kỳ có thể chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam, như đã được thể hiện trong bản ghi âm sau này được giữ kín.

Henry Kissinger: Theo tôi, Thiệu đã nói đúng. Hiệp định Paris sẽ đặt Việt Nam Cộng hòa vào tình huống nguy hiểm.

Richard Nixon nói rằng Việt Nam Cộng hòa chỉ có thể chống lại bản thân mình… Cứ để nó chết nếu nó chết. Chúng ta không thể cứ cho nó bú mãi vì nó lớn rồi.

Khoản viện trợ kinh tế và quân sự đáng kể của Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa duy trì, nhưng do nạn tham nhũng, viện trợ này bị sử dụng rất ít và không hiệu quả. Tham nhũng trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa rất lớn. Trong năm 1967, cả nửa triệu tấn gạo đã biến mất khỏi các kho gạo, súng cũng được bán với giá 25–30 đôla một khẩu và ngay cả máy bay lên thẳng cũng có thể được tuồn ra. Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ đề cập đến việc tướng Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 24.000 vũ khí cá nhân và 8.000 đài vô tuyến do Hoa Kỳ viện trợ và sau đó bán hết vào chợ đen, trong đó phần lớn đã lọt vào tay quân Giải phóng. Nhà báo Mỹ William J.

Trong chuyến điều tra năm 1968, Lederer nhận xét rằng nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa là kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Các quan chức Việt Nam Cộng hòa đã tham ô hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ và sau đó bán chúng ra chợ đen. Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp vũ khí quân dụng và hàng hóa. Có tới 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. Theo William J. Lederer nói:

“Tôi đã thấy trước Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại – không phải chỉ bởi sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình.” Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Thiệu, Việt Nam Cộng hòa không có một chính sách kinh tế phù hợp để xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia và ngày càng phụ thuộc vào viện trợ của Hoa Kỳ. Do đó, khi Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, nền kinh tế gặp khó khăn

Năm 1975, sau khi thất bại ở Ban Mê Thuột (nay được gọi là Buôn Ma Thuột), quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng tan rã và mất quyền kiểm soát lãnh thổ do sự tấn công mạnh mẽ của Quân Giải phóng và các sai lầm chiến lược. Nhiều tướng lãnh cao cấp của Đảng Cộng hòa Việt Nam đã tự ý rời ngũ. Được đề cử vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Khi Quân Giải phóng miền Nam tiến vào Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Sau khi Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố: “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp phá Tuyên bố này và việc đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã cho phép Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam, bao gồm cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Thật vậy, sau năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa lãnh thổ, đại diện ở nước ngoài và tư cách là thành viên các tổ chức quốc tế như WHO, ILO, UNESCO, ICAO, IAEA, IMF và Ngân hàng Thế giới. Kế thừa này được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện theo Công ước về kế thừa quốc gia đối với Điều ước quốc tế năm 1978.

https://gocnhin24h.com/viet-nam-cong-hoa-an-bam-my-va-duoc-cong-san-tra-no-nhu-the-nao/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *