Ngoài những tháp Eiffel, bảo tàng Louvre, đại học Sorbonne, quảng trường Tertre, trung tâm mua sắm Lafayette … thi tại nước Pháp còn có một “kỳ quan” ngay giữa Thủ đô Paris mà ít người Việt biết đến: Đó là tượng đài của Thống chế Joseph Simon Galliéni ở quảng trường Vauban nằm tại trung tâm Quận 7.
Bốn bề quanh bệ là bốn người đàn ông đưa tay lên cao để khiêng ông tướng, bốn cột tượng hình dung phúng dụ bốn giai đoạn trọng đại trong đời sống của ông : Soudan là nơi ông bắt đầu sự nghiệp, Tonkin (Bắc kỳ) là vùng ông được xem như người đã có công bình định, Madagascar là xứ ông được bổ nhiệm Toàn quyền và Paris là thành phố ông được cử chỉ huy các hào lũy ngay từ những ngày đầu thế chiến thứ nhất. Tượng nầy do nghệ sĩ Jean Boucher thực hiện, được khánh thành năm 1926.
Thống chế Joseph Simon Galliéni là ai?
Đối với nước Pháp: Thống chế Galliéni (1849-1916) là một vị anh hùng trong Đệ Nhất Thế chiến. Ông đã bảo vệ Paris chống lại quân xâm lược Phổ-Đức, và nổi tiếng với lời hiệu triệu quân dân thủ đô Paris vào ngày 3-9-1914: “Tôi đã được ủy nhiệm sứ mạng bảo vệ Paris chống lại quân xâm lược. Tôi sẽ làm tròn sứ mạng đó cho đến cùng”(
Đối với một số dân tộc ở Châu Á và Châu Phi, trong đó có Việt Nam: Ông là một tay Thực dân xâm lược sừng sỏ và thâm hiểm mà những dân tộc này có thể tha thứ nhưng không bao giờ quên được.
Tại Phi châu, ông đã đóng góp tích cực vào việc mở mang và cũng cố Đế quốc (Pháp), bằng những phương pháp mà mức độ tàn bạo lên đến đỉnh cao với cuộc thảm sát phong trào Menalamba tại Madagascar. Ngoài đảo quốc Madagascar, với tư cách của một sĩ quan chỉ huy kiêm nhà cai trị cao cấp, ông còn tấn chiếm và thiết lập nền đô hộ ở các nước Phi châu như Sénégal, Soudan, … để mở mang cương vực nước Pháp và nước Chúa.
Tại Việt Nam, từ năm 1892 đến 1896, lúc bấy giờ với quân hàm Đại Tá, ông Galliéni có nhiệm vụ tiểu trừ và đàn áp các phong trào chống Pháp mà tiêu biểu là Phong trào Cần Vương đồng thời củng cố sự hiện diện của nước Pháp bằng cách tổ chức bộ máy hành chánh cho nước (Việt Nam) nầy. Đặc biệt, đây là giai đoạn ông xây dựng những tiền đề được gọi là học thuyết thuộc địa của ông, như “vết dầu loang” và “chính sách phân biệt các sắc tộc”, vốn được xem như phần tinh lọc của chính sách chia để trị
(C’est à cette époque qu’il élabore les prémices de ce qui est convenu d’appeler sa doctrine coloniale, tels que la “tache d’huile”, et la “politique des races”, raffinement de la politique du diviser pour régner).
Ngoài ra, ông cũng đã từng tuyên bố thẳng thừng một cách tàn bạo về phương pháp phải áp dụng để khẳng định công cuộc chinh phục thuộc địa: “Hãy dùng những lời khuyên xảo trá và những lời nói bịp bợm để đập vào đám cầm đầu và trấn an đám dân lạc lối bằng những lời khuyên nhủ hào nhoáng và bằng những lời xác nhận (do ta) bịa đặt ra, tất cả bí quyết của một chính sách bình định đều nằm trong hai thuật ngữ đó. Nói tóm lại, mọi hoạt động chính trị trong xứ thuộc địa phải gồm việc phân biệt được ai là thành phần bản xứ dùng được để lợi dụng họ, và ai là thành phần bản xứ không dùng được thì phải loại trừ và tiêu diệt”
(Il s’exprime en outre avec une brutale franchise sur la méthode à suivre pour affermir les conquêtes coloniales : «Frapper à la tête et rassurer la masse égarée par des conseils perfides et des affirmations calomnieuses, tout le secret d’une pacification est dans ces deux termes. En somme, toute action politique dans la colonie doit consister à discerner et mettre à profit les éléments locaux utilisables, à neutraliser et détruire les éléments locaux non utilisables — Joseph Gallieni, cité dans Alain Ruscio, “Le crédo de l’homme blanc”, Éditions Complexe, Bruxelles, 2002, p. 250-2510).
Chia để trị trên cơ sở “dùng được” thì bị lợi dụng, hay “không dùng được” thì bị tiêu diệt. Hiệu quả và thâm hiểm đến độ trước họa xâm lăng và nền đô hộ tàn bạo của Thực dân Pháp, thay vì đoàn kết thì dân ta bị xẻ làm đôi: Thành phần “không dùng được” thì, từ nhiều tổ chức khác nhau, hàng hàng lớp lớp một lòng chống xâm lăng, còn thành phần “dùng được” thì một lòng cam tâm làm tay sai cho giặc để được “lợi dụng”. Mâu thuẫn giữa hai thành phần dân tộc đó, dù đã gần hai thế kỷ và sau bao nhiêu biến cố lịch sử, tưởng đã biến mất, thế mà đến nay vẫn còn âm ỉ trong tư duy và hành xữ của một số người Việt!
Những năm gần đây, trên các diễn đàn điện tử, xuất hiện nhiều tiếng nói biện minh cho cuộc xâm lăng và nền đô hộ của đế quốc Pháp. Thậm chí một số thành phần “trí thức” trong và ngoài nước còn đề nghị là dân ta nên trân trọng ghi ơn đoàn quân viễn chinh và các giáo sĩ gián điệp “tử đạo” của Hội Thừa Sai Paris (MEP) đã từng đến thực hiện “nhiệm vụ khai hóa” trên đất nước ta.
Cùng một lúc, để bênh vực cho người Pháp và cuộc xâm lăng / đô hộ Việt Nam trong những thế kỷ trước, họ còn muốn đánh giá lại lịch sử Việt Nam thời cận đại, xem các phong trào yêu nước như Văn Thân và Cần Vương là “phiến loạn”, vất vào thùng rác lịch sử sự nghiệp của những anh hùng chống Pháp “không dùng được”, để chỉ còn giữ lại những thành phần “dùng được” như Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Tổng đốc (Đỗ Hữu) Phương, Nguyễn Trường Tộ, Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký, Phêrô Trần Lục, Giaon Baotixita Nguyễn Bá Tòng, …
Một chế độ thuộc địa đày đọa dân ta mà lại là khuôn mẫu ước mơ, lại là mục tiêu “đấu tranh” của những trí thức Việt Nam thì thật là ngao ngán!!! Không hiểu những người này khi nhìn tượng của Thống chế Galliéni, tên thực dân sừng sỏ và nham hiểm đang “đè đầu cưỡi cổ” dân tộc ta giữa kinh đô ánh sáng như thế này, tôi tự hỏi không biết những thành phần “trí thức” kể trên có thấy hổ thẹn không? Và có thấy nhục nhã cho tình trạng suy thoái tri thức thê thảm của mình không?